Đầu năm thế-kỹ (15) mười năm.
Việt-Nam sữ-lược cũa Trần-Trọng-Kim,
Viết về xã-hội Việt-Nam.
Đời Nguyên, thời Pháp đô-hộ nước Nam.
Một chàng có vợ khôn lanh,
Đưa một quan tiền dặn-dò khi đi.
Anh chàng keo-kiệt đa nghi,
Để dành lén-lút quà vặt ăn riêng,
Anh kia nghi vợ bớt tiền,
Nàng bèn giãi-thích dịu-dàng, giỏi-giang:
Gạo tẻ, nước mắm, rượu vang,
Tiền gà, gạo nếp, trầu cau, thịt thà,
Với một nãi chuối...đó mà.
Ba đơn-vị, quan, tiền, đồng, thật nhanh,
Tiền, đồng, cộng là một quan,
Một quan đó là mười tiền dễ thôi.
Nhớ chăng, trăng sáng vườn chè?
Bài thơ Nguyễn-Bính dể-dàng tính hơn.
Thời nay đất khách tha hương ,
Các bà, các chị làm assembler,
Làm nails, làm tóc, chắt-chiu,
Nuôi lưng tấm thớt Bác-Sĩ, Kỹ-Sư,
Nhưng chưa chắc chắn còn ai,
Đặt ra điều kiện chết người như xưa;
Chưa thi đỗ, chưa động phòng,
Anh chồng ngồi ngống trông như tượng đồng.
Trăm cents là đúng một đồng,
Chắt-chiu tháng tháng cho chàng đi thi.
Thật là quí lắm ai chăng,
Quê hương ta có sáu trăm đồng một quan.
Thanh Lien
連鎮源
Việt-Nam sữ-lược cũa Trần-Trọng-Kim,
Viết về xã-hội Việt-Nam.
Đời Nguyên, thời Pháp đô-hộ nước Nam.
Một chàng có vợ khôn lanh,
Đưa một quan tiền dặn-dò khi đi.
Anh chàng keo-kiệt đa nghi,
Để dành lén-lút quà vặt ăn riêng,
Anh kia nghi vợ bớt tiền,
Nàng bèn giãi-thích dịu-dàng, giỏi-giang:
Gạo tẻ, nước mắm, rượu vang,
Tiền gà, gạo nếp, trầu cau, thịt thà,
Với một nãi chuối...đó mà.
Ba đơn-vị, quan, tiền, đồng, thật nhanh,
Tiền, đồng, cộng là một quan,
Một quan đó là mười tiền dễ thôi.
Nhớ chăng, trăng sáng vườn chè?
Bài thơ Nguyễn-Bính dể-dàng tính hơn.
Thời nay đất khách tha hương ,
Các bà, các chị làm assembler,
Làm nails, làm tóc, chắt-chiu,
Nuôi lưng tấm thớt Bác-Sĩ, Kỹ-Sư,
Nhưng chưa chắc chắn còn ai,
Đặt ra điều kiện chết người như xưa;
Chưa thi đỗ, chưa động phòng,
Anh chồng ngồi ngống trông như tượng đồng.
Trăm cents là đúng một đồng,
Chắt-chiu tháng tháng cho chàng đi thi.
Thật là quí lắm ai chăng,
Quê hương ta có sáu trăm đồng một quan.
Thanh Lien
連鎮源